Ngân Kiều Tán (TLGB): Ôn Bệnh Điều Biện (Ngô Cúc Thông)

Ngân kiều tán (銀翹散) là phương thuốc nổi tiếng được ghi trong sách Ôn bệnh điều biện của danh y Ngô Cúc Thông (đời Thanh). Đây là bài thuốc tiêu biểu cho phép tân lương giải biểu, thanh nhiệt giải độc, thường dùng trong điều trị ngoại cảm phong nhiệt, ôn bệnh giai đoạn đầu với các triệu chứng như sốt, sợ gió, họng đau, ho khan, miệng khát. Phương này được xem là đại diện kinh điển của Ôn bệnh học, khác với các bài thuốc giải biểu của Trương Trọng Cảnh trong Thương hàn luận vốn thiên về tân ôn giải biểu.

Hình ảnh minh họa các vị thuốc trong bài Ngân Kiều Tán 

Bài thơ 4 câu ngắn gọn, dễ thuộc để ghi nhớ Ngân kiều tán:

Ngân hoa, Liên kiều thanh nhiệt nhanh

Ngưu bàng, Cát cánh chữa họng khan

Bạc hà, Kinh giới, Đậu xị trợ

Trúc diệp, Cam thảo giải khát tan

Ngân Kiều Tán (TLGB): Ôn Bệnh Điều Biện (Ngô Cúc Thông)

Ngân Kiều Tán (TLGB): Ôn Bệnh Điều Biện (Ngô Cúc Thông)

Thành phần, công dụng, chủ trị, cách dùng

Thành phần:

  • Liên kiều 12g
  • Cát cánh 12g
  • Trúc diệp 8g
  • Kinh giới tuệ 6g
  • Đạm đậu xị 12g
  • Ngưu bàng tử 12g
  • Kim ngân hoa 12g
  • Bạc hà 12g
  • Cam thảo 4g

Công dụng: Tân lương, thấu biểu, thanh nhiệt, giải độc.

Chủ trị: Các chứng ôn bệnh giai đoạn đầu, cảm mạo phong nhiệt, viêm họng, viêm amidan, viêm phế quản thể nhiệt.

Cách dùng: Sắc uống, ngày 1 thang.

Giải thích từng vị thuốc trong bài Ngân Kiều Tán

Kim ngân hoa và Liên kiều: QUÂN - có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, giúp phát tán phong nhiệt.

Bạc hà, Kinh giới, Đạm đậu xị: THẦN - cùng tham gia hỗ trợ, tăng cường công năng giải biểu.

Cát cánh, Ngưu bàng tử, Cam thảo: - giúp thông phế, hóa đờm, lợi hầu họng.

Trúc diệp: SỨ - có công năng thanh nhiệt, sinh tân dịch, làm dịu cảm giác khát.

Lưu ý khi dùng Ngân kiều tán

Chủ trị ngoại cảm phong nhiệt, ôn bệnh sơ khởi với các chứng: phát sốt, sợ gió, hơi ớn lạnh, họng đau, miệng khát, rêu lưỡi trắng mỏng hoặc hơi vàng, mạch phù sác.

Không dùng cho chứng biểu hàn (ngoại cảm phong hàn) vì thuốc thiên về tân lương giải biểu.

Thận trọng khi bệnh đã nhập lý (sốt cao, mồ hôi nhiều, mạch hồng đại), lúc đó phải đổi phương phù hợp.

Khi dùng cho trẻ em, người già hoặc người thể hư cần gia giảm liều lượng cho thích hợp.

Trong Ngân kiều tán theo bản gốc Ôn bệnh điều biện của Ngô Cúc Thông thì dùng Cam thảo sống (sinh cam thảo), không phải chích cam thảo. Lý do:

  • Sinh cam thảo thiên về thanh nhiệt, giải độc, điều hòa các vị thuốc khác.
  • Chích cam thảo (cam thảo sao mật) thiên về bổ trung, ích khí, nhuận phế – thường dùng trong các chứng hư, suy nhược.

⚠️ Chú ý:

Những thông tin trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, được trích dẫn từ y văn cổ và các tài liệu chuyên môn. Việc sử dụng bài thuốc Ngân kiều tán cần có sự thăm khám, chẩn đoán và chỉ định của thầy thuốc Y học cổ truyền. Người đọc không nên tự ý áp dụng để tránh những rủi ro không mong muốn.

Trong “kho tàng binh pháp trị bệnh” của Y học cổ truyền, mỗi bài thuốc như một vị tướng lĩnh cầm quân. Nếu Ngân kiều tán là “người lính tiên phong” trong phép tân lương giải biểu, thanh nhiệt giải độc, thì Tang cúc ẩm lại khéo léo trị phong ôn sơ khởi, ho nhiều, họng khát; còn Ma hạnh thạch cam thang thì như “trận pháo hỏa lực mạnh”, công vào phế khí thực nhiệt, tuyên thông khí đạo. Mỗi bài đều có chỗ sở trường riêng, biết kết hợp và vận dụng linh hoạt thì chẳng khác nào nắm được “binh quyền trong tay, bệnh tà khó lòng lẩn thoát”.

Người viết bài: Hồ Viết Cân (www.hovietcan.com)

Nguồn tham khảo: 

  • Sách Thang đầu Ca quyết
  • Sách Thương hàn luận (trương trọng cảnh)
  • Ôn Bệnh Điều Biện (Ngô Cúc Thông)
  • Internet

Đăng nhận xét

0 Nhận xét